Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu diễn biến ngày càng phức tạp và nguồn tài nguyên hóa thạch dần cạn kiệt, chuyển dịch sang các mô hình năng lượng bền vững đã trở thành xu thế tất yếu. Trong đó, năng lượng tuần hoàn được xem là một cách tiếp cận mới, kết hợp giữa phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả tài nguyên và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Năng lượng tuần hoàn là mô hình tổ chức sản xuất và tiêu dùng năng lượng dựa trên nguyên tắc khép kín, tận dụng tối đa các nguồn năng lượng tái tạo và tái sử dụng phụ phẩm, chất thải từ các hoạt động kinh tế – xã hội để tạo ra năng lượng. Không chỉ dừng lại ở việc thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo, mô hình này còn hướng tới tối ưu hóa vòng đời tài nguyên, giảm phát sinh chất thải và hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường.
Đối với Việt Nam, đặc biệt là khu vực miền núi, nông thôn, năng lượng tuần hoàn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng gắn với bảo vệ môi trường và ổn định sinh kế cho người dân. Việc tận dụng các nguồn sinh khối từ phụ phẩm nông – lâm nghiệp, chất thải chăn nuôi, cùng với phát triển thủy điện nhỏ, điện mặt trời quy mô phân tán là những giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội của nhiều địa phương.
Khu Dự trữ sinh quyển Miền Tây Nghệ An là khu vực có tiềm năng lớn để phát triển mô hình năng lượng tuần hoàn. Với diện tích rừng tự nhiên rộng lớn, hoạt động sản xuất nông – lâm nghiệp đa dạng và hệ thống sông suối dày đặc, khu vực này sở hữu nhiều nguồn tài nguyên có thể khai thác hiệu quả cho năng lượng tái tạo như sinh khối từ lâm sản ngoài gỗ, phế phụ phẩm gỗ, phụ phẩm nông nghiệp và tiềm năng thủy điện nhỏ gắn với bảo vệ hệ sinh thái.
Trong bối cảnh quản lý Khu Dự trữ sinh quyển, phát triển năng lượng tuần hoàn cần được tiếp cận theo hướng hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Các mô hình năng lượng sinh khối quy mô nhỏ, sử dụng phụ phẩm nông – lâm nghiệp tại chỗ, không chỉ góp phần giảm phát thải khí nhà kính mà còn giảm áp lực khai thác tài nguyên rừng tự nhiên. Đồng thời, việc phát triển điện mặt trời áp mái tại các khu dân cư, trụ sở công cộng, cơ sở du lịch sinh thái trong vùng đệm và vùng chuyển tiếp giúp giảm phụ thuộc vào nguồn điện truyền thống, tăng tính tự chủ năng lượng cho cộng đồng địa phương.

Bên cạnh lợi ích về môi trường, năng lượng tuần hoàn còn mở ra cơ hội phát triển sinh kế bền vững cho người dân vùng đệm Khu Dự trữ sinh quyển Miền Tây Nghệ An. Việc thu gom, xử lý và sử dụng phụ phẩm nông – lâm nghiệp để sản xuất năng lượng tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và góp phần hình thành các chuỗi giá trị kinh tế xanh tại địa phương. Đây là yếu tố quan trọng giúp gắn kết mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học với phát triển kinh tế – xã hội, giảm nguy cơ khai thác quá mức tài nguyên rừng.
Tuy nhiên, để phát triển năng lượng tuần hoàn hiệu quả trong Khu Dự trữ sinh quyển, cần có định hướng quản lý chặt chẽ, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến các hệ sinh thái nhạy cảm và giá trị bảo tồn cốt lõi. Việc lồng ghép nội dung phát triển năng lượng tuần hoàn vào quy hoạch không gian, kế hoạch quản lý và các chương trình phát triển sinh kế của Khu Dự trữ sinh quyển là yêu cầu cần thiết. Đồng thời, cần tăng cường đánh giá tác động môi trường, lựa chọn công nghệ phù hợp và thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng địa phương trong quá trình triển khai.

Trong thời gian tới, phát triển năng lượng tuần hoàn gắn với Khu Dự trữ sinh quyển Miền Tây Nghệ An không chỉ góp phần thực hiện các mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính mà còn khẳng định vai trò của khu dự trữ sinh quyển như một mô hình thí điểm cho phát triển bền vững, hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Đây cũng là hướng đi phù hợp với các định hướng chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” trong dài hạn.
Thái Bá Thám
Văn phòng Ban Quản lý