KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN MIỀN TÂY NGHỆ AN - WESTERN NGHE AN BIOSPHERE RESERVE

Tổng quan về Vườn Quốc Gia Pù Mát

     Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm ở 18o46’ vĩ độ Bắc và 104o24’ độ kinh Đông thuộc tỉnh Nghệ An. Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm trên địa giới hành chính của 3 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, và Tương Dương, đường ranh giới phía Nam của Vườn Quốc Gia (VQG) chạy dọc theo đường biên giới Việt Lào. Vườn Quốc Gia Pù nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây là 1.800mm và nhiệt độ trung bình 23,5oC. 
Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia Pù Mát có nhiều thuận lợi trong việc phát triển du lịch: diện tích rộng lớn, tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động vật rừng, thực vật rừng mới được khám phá trong thời gian gần đây: 2.500 loài thực vật thuộc 160 họ và gần 1.000 loài động vật… 
Đặc biệt, một khung cảnh thiên nhiên hoang sơ như chưa hề có bàn tay của con người chạm đến: Rừng nguyên sinh thượng nguồn Khe Thơi, Khe Bu, Khe Choăng, Cao Vều… Thác Khe Kèm, suối nước Mọc, sông Giăng, rừng săng lẻ và những nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Thái, H’mông, Đan Lai – nét hoang sơ là món quà của thiên nhiên ban tặng cho VQG Pù Mát. 

Nét đặc trưng độc đáo

     Với giới khoa học, cái tên Pù Mát không có gì xa lạ bởi đây là một trong những nơi đầu tiên phát hiện loài thú quý hiếm: Sao la. Với diện tích vùng lõi rộng 94.804ha và vùng đệm rộng 86.000 ha, trải rộng trên 3 huyện Tương Dương, Con Cuông và Anh Sơn của tỉnh Nghệ An, Pù Mát chính là nơi ở của người Thái – dân tộc đã sống ở đây nhiều đời. Nét hoang sơ hùng vĩ của núi rừng Pù Mát được pha lẫn với nét văn hoá độc đáo, tinh tế của người Thái. Họ sinh sống ở hầu hết các thôn bản, trong các nhà sàn bằng gỗ với nghề trồng lúa nước. Ở những vùng đồi, họ tham gia trồng cây hoặc đốt nương làm rẫy, trồng màu hoặc các loại cây lương thực khác; chăn nuôi gia súc gia cầm; làm các sản phẩm mây tre đan và dệt vải truyền thống. Vải thổ cẩm của người Thái nổi tiếng về tính độc đáo, màu sắc sặc sỡ và bền đẹp. Giữ truyền thống lâu đời, người Thái sinh sống tập trung theo dòng họ, mỗi cộng đồng dân cư có tín ngưỡng và tập tục riêng, có những lễ hội gắn liền với các mùa bội thu và sản xuất nông nghiệp. Nhảy sạp, uống rượu cần là đặc trưng không thể trộn lẫn trong sinh hoạt thường ngày của người Thái. Chiếm số ít là dân tộc Kinh (chủ yếu sống ở thị trấn Con Cuông) và dân tộc Đan Lai. Người Đan Lai sống tập trung tại 3 bản: Cò Phạt, Bản Cồn và Bản Búng thuộc xã Môn Sơn nằm ở phía Đông Nam của Vườn quốc gia Pù Mát, họ sống và canh tác ở những nơi đất dốc, sinh sống nhờ săn bắn và hái lượm.

Những món quà vô giá của thiên nhiên

   Theo tiếng Thái, Pù có nghĩa là đỉnh núi, Pù Mát là đỉnh núi cao nhất trong khu vực (1.841m) và được đặt tên cho Vườn quốc gia. Hiếm có du khách nào chinh phục được đỉnh núi này dù trước đó có thể họ đã đứng dang tay trên đỉnh Phan xi păng. Pù Mát đẹp ở cái hùng vĩ của rừng xanh, ở vẻ nguyên sinh không chút đụng chạm của bàn tay con người. Đến với Pù Mát du khách sẽ được chiêm ngưỡng nét hoang sơ của rừng nguyên sinh với tính da dạng sinh học cao bậc nhất Việt Nam và nhiều thắng cảnh nổi bật.

   Đến Pù Mát du khách sẽ được chiêm ngưỡng khu rừng săng lẻ thuần loài cách khu hành chính của vườn khoảng 40km, rộng khoảng 100ha. Đây là khu rừng cổ thụ, cao khoảng 50m và toả bóng mát quanh năm, thuộc xã Tam Đình, huyện Tương Dương. Thiên nhiên ở đây thật kỳ diệu với những tán lá xanh còn đọng những giọt sương vào mỗi buổi sáng, tiếng chim hót chuyền cành khi bình minh lên.

   Thưởng thức sự thư giãn vào buổi sáng, du khách có thể hoà mình vào thiên nhiên dịu mát của thác Khe Kèm (hay còn gọi là thác Kèm) trong cái nắng nóng oi bức đặc trưng của miền Trung. Cách thị trấn Con Cuông khoảng 20km về phía Nam, thác Kèm hùng vỹ ở độ cao 150m. Rất nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu tại đây đã khẳng định thác Kèm là thác nước gần như nguyên sinh nhất ở Việt Nam. Con đường vào thác quanh co, uốn lượn và gập ghềnh. Có thể điều đó sẽ làm du khách nản lòng nhưng với những ai vượt qua được chặng đường không ngắn chút nào để được tận mắt chiêm ngưỡng một tạo vật thiên nhiên dành cho Pù Mát hẳn người đó sẽ không cảm thấy tiếc nuối. Người Thái gọi thác Kèm là Bổ Bố, có nghĩa là dải lụa trắng. Từ chân thác nhìn lên, bạn sẽ có cảm giác dòng suối tuôn chảy bất tận trong những dải bọt trắng xoá, chẳng khác một dải lụa trắng buông dài bất tận. Hoà trong màu trắng kỳ ảo đó là dòng suối trong vắt, mát rượi cùng tiếng ca của  muôn loài chim. 
   Trên đường vào thác Kèm, ấn tượng đọng lại trong du khách về vẻ đẹp của Pù Mát là tiếng nước chảy ở đập Phà Lài (hoa của trời), ở màu đỏ như phượng vĩ trên những tán cây hai bờ sông Giăng (cách khu hành chính của vườn quốc gia khoảng 20km). Một điều kỳ lạ gần như hiếm có ở Pù Mát là trên những chiếc thuyền nhỏ rẽ sóng trên sông Giăng, du khách như được trở về với thiên nhiên đích thực, nơi con người chỉ là một phần nhỏ bé của thiên nhiên. Hai bên bờ cây cối rậm rạp, đậm vẻ hoang sơ với điểm nhấn là dãy núi đá vôi hùng vĩ, điểm xuyết những màu sắc sặc sỡ của các loài Phong lan và làn nước trong xanh dịu mát. Nếu du khách mang theo một vài loại quả, hẳn sẽ được gặp được con cháu lão Tôn không chút sợ sệt ra “nhận quà”. Chúng sẽ đu mình trên những cành cây làm nên cảnh tượng như Hoa quả sơn. 
   Từ ngã ba cầu Khe Diêm trên quốc lộ 7, đi dọc theo đường vào vùng Môn Sơn, Lục Dạ của huyện Con Cuông khoảng 3km, du khách sẽ gặp suối Mọc. Khác với những dòng suối khác, dòng nước ở đây cứ như đội lên từ lòng đất, trong veo ùn chảy làm tan biến cái nóng thiêu đốt của mùa hè. Về mùa thu, dòng suối có vẻ mát dịu hơn cùng với khí trời. Ngược lại, mùa đông, thiên nhiên ở đây lại ban tặng cho dòng suối một điều kỳ diệu: dòng nước ấm áp vô cùng trong những ngày lạnh giá.

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

   1. Vị trí địa lý
   VQG Pù Mát nằm về phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh khoảng 160km theo đường quốc lộ, toạ độ địa lý của vườn:
18 46′ – 19 12′ Vĩ độ Bắc. 104 24′ – 104 56′ Kinh độ Đông.
   Ranh giới của vườn: phía Nam có chung 61km với đường biên giới Lào.
   Phía Tây giáp với xã Tam Hợp, Tam Định, Tam Quang (huyện Tương Dương).
   Phía Bắc giáp với xã Lạng Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Môn Sơn (huyện Con Cuông).
   Phía Đông giáp với các xã Phúc Sơn, Hội Sơn (huyện Anh Sơn).
   2. Diện tích
   Toàn bộ diện tích VQG nằm trong địa giới hành chính của 3 huyện Anh Sơn, Con Cuông và Tương Dương tỉnh Nghệ An. Diện tích vùng lõi 94.275ha (sau hiệu chỉnh năm 1999) và vùng đệm khoảng 100.000ha nằm trên diện tích 16 xã.
Huyện Tương Dương gồm 4 xã: Tam Hợp, Tam Định, Tam Quang, Tam Hoá.
Huyện Con Cuông gồm 7 xã: Lạng Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Môn Sơn, Yên Khê, Bồng Khê, Chi khê.
Huyện Anh Sơn gồm 5 xã: Phúc Sơn, Hội Sơn, Tường Sơn, Cẩm Sơn, Đỉnh Sơn.
   3. Địa hình – địa mạo
   Khu vực có địa hình phức tạp, chia cắt mạnh. Các đỉnh dông phụ có độ dốc lớn, độ cao trung bình từ 800  1000m, địa hình hiểm trở. Phía Tây Nam của VQG là nơi có địa hình tương đối bằng, thấp và là nơi sinh sống trước đây cũng như hiện nay của một số cộng đồng người dân tộc. Ở đó nhiều hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp đã và đang diễn ra. Nằm trong khu vực còn có khoảng 7.057ha núi đá sỏi và phần lớn diện tích nằm ở vùng đệm của VQG, chỉ có khoảng 150ha nằm trong vùng lõi.
   4. Đất đai, thổ nhưỡng

   – Đất đai
   VQG Pù Mát nằm trên dãy Trường Sơn Bắc, quá trình kiến tạo địa chất được hình thành qua các kỷ Palezoi, Đề vôn, Các bon, Pecmi, Tri at…đến Mioxen cho tới ngày nay. Trong suốt quá trình phát triển của dãy Trường Sơn thì chu kỳ tạo núi Hecxinin, địa hình luôn bị ngoại lực tác động mạnh mẽ tạo nên 4 dạng địa mạo chủ yếu sau:
  + Núi cao trung bình: Nằm ngay biên giới Việt Lào với vài đỉnh cao trên 2000m. (Phulaileng cao 2711m, Rào cỏ cao 2286m), địa hình vùng này rất hiểm trở, đi lại cực kỳ khó khăn.
  + Kiểu núi thấp và đồi cao: Kiểu này chiếm phần lớn diện tích của miền và có độ cao từ 1000m trở xuống, cấu trúc tương đối phức tạp, được cấu tạo bởi các trầm tích, biến chất, địa hình có phần mềm mại và ít dốc hơn.
  + Thung lũng kiến tạo, xâm thực: Kiểu này tuy chiếm một diện tích nhỏ nhưng lại thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, độ cao thấp hơn gồm thung lũng các sông suối khe Thời, khe Choang, khe Khặng (sông Giăng) và bờ phải sông Cả.
  + Các khối đá vôi nhỏ: Kiểu này phân tán dạng khối, uốn nếp có quá trình karst trẻ và phân bố hữu ngạn sông Cả ở độ cao 200 – 300m. Cấu tạo phân phiến dày, màu xám đồng nhất và tinh khiết.
   – Thổ nhưỡng
   Các loại đất trong vùng đã xác định:
 + Đất feralit mùn trên núi trung bình (PH), chiếm 17.7%, phân bố từ độ cao 800 -1000m dọc biên giới Việt Lào.
 + Đất feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp (F), chiếm 77.6%, phân bố phía Bắc và Đông Bắc VQG.
 + Đất dốc tụ và đất phù sa D, P chiếm 4.7%, phân bố thành giải nhỏ xen kẽ nhau bên hữu ngạn sông Cả.
 + Núi đá vôi (K2) chiếm 3.6% phân bố thành giải nhỏ xen kẽ nhau bên hữu ngạn sông Cả.
   5. Khí hậu thuỷ văn
   VQG Pù Mát nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, do chịu ảnh hưởng của dãy Trường Sơn đến hoàn lưu khí quyển nên khí hậu ở đây có sự phân hoá và khác biệt lớn trong khu vực.
 – Chế độ nhiệt:
 + Nhiệt độ trung bình năm 23 – 240C, tổng nhiệt năng từ 8500 – 87000C.
 + Mùa đông từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình trong các tháng này xuống dưới 200C và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 180C (tháng giêng).
 + Ngược lại trong mùa hè, do có sự hoạt động của gió Tây nên thời tiết rất khô nóng, kéo dài tới 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Nhiệt độ trung bình mùa hè lên trên 250C, nóng nhất vào tháng 6 và 7, nhiệt độ trung bình là 290C. Nhiệt độ tối cao lên tới 420C ở Con Cuông và 42.70C ở Tương Dương vào tháng 4 và 5, độ ẩm trong các tháng này có nhiều ngày xuống dưới 30%.
 – Chế độ mưa ẩm:
  Vùng nghiên cứu có lượng mưa ít đến trung bình, 90% lượng nước tập trung trong mùa mưa, lượng mưa lớn nhất là tháng 9, tháng 10 và thường kèm theo lũ lụt. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Các tháng 2, 3, 4 có mưa phùn do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Tháng 5, 6, 7 là những tháng nóng nhất và lượng bốc hơi cũng cao nhất.
+ Độ ẩm không khí trong vùng đạt 85 đến 86%, mùa mưa lên tới 90%. Tuy vậy nhưng giá trị cực thấp về độ ẩm vẫn thường do thời kỳ nóng kéo dài.
 – Thuỷ văn:
Trong khu vực có hệ thống sông Cả chạy theo hướng Tây Bắc đến Đông Nam. Các di lưu phía hữu ngạn như khe Thơi, khe Choang, khe Khặng lại chạy theo hướng Tây Nam lên Đông Bắc và đổ nước vào sông Cả.
+ Cả 3 con sông trên đều có thể dùng bè mảng đi qua một số đoạn nhất định. Riêng khe Choang và khe Khặng có thể dùng thuyền máy ngược dòng ở phía hạ lưu.
+ Nhìn chung mạng lưới sông suối khá dày đặc, do lượng mưa phân bố không đều giữa các mùa và các khu vực nên tình trạng lũ lụt và hạn hán thường xuyên xẩy ra.

II. ĐA DẠNG SINH HỌC

    Vườn quốc gia Pù Mát nằm trong khu vực sinh thái Bắc Trường Sơn. Đây là một khu vực bảo tồn tính đa dạng sinh học đại diện cho hệ sinh thái rừng nhiệt đới và á nhiệt đới điển hình lớn nhất khu vực Bắc Trường Sơn và là nơi đã xác định có sự phân bố của nhiều loài động, thực vật quý hiếm, trong đó phải kể đến các loài mới được khoa học phát hiện trong những năm 90 của thế kỷ XX. Độ cao trong khu vực dao động từ 200 m – 1.841 m tạo ra nhiều dải núi chính chia cắt địa hình mạnh.

   Giá trị về Đa dạng sinh học của VQG Pù Mát

   Theo kết quả điều tra của Viện điều tra quy hoạch rừng năm 1992 thì Vườn quốc gia Pù Mát có 1.297 loài thực vật bậc cao, 64 loài thú, 137 loài chim, 25 loài bò sát, 15 loài lưỡng cư.
   Sau khi được thành lập, Vườn quốc gia Pù Mát được sự hỗ trợ của dự án lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên Nghệ An, cùng với sự cộng tác của 55 nhà khoa học trong và ngoài nước, 17 cán bộ Vườn quốc gia Pù Mát đã tổ chức nhiều đợt điều tra, nghiên cứu thực địa ở vùng núi thấp và vùng núi cao trong thời gian từ năm 1998 đến năm 2004.  Kết quả đa dạng sinh học tổng hợp như sau:
   1. Về thực vật
 – Qua kết quả nghiên cứu của các chuyên gia trong nước và quốc tế, hiện tại đã xác định được có 2.494 loài thực vật, 931 chi thuộc 202 họ. Trong đó có 70 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam có nguy cơ bị tiêu diệt; chiếm 2,81% tổng số loài của khu hệ. Công thức các loài quí hiếm hệ thực vật Pù Mát theo sách đỏ Việt Nam (RBD 2007) là:
   Tổng số loài:  70 loài = 44 VU + 22EN + 4CR
   Các loài thực vật quý hiếm tìm thấy ở  Pù Mát bao gồm 44 loài ở mức VU (Sẽ nguy cấp), 22 loài ở mức EN (Nguy cấp), 4 loài ở mức CR (Rất nguy cấp).
63 loài nằm trong sách đỏ IUCN (2007).
   Công thức là: 63 loài = 25VU+ 4EN+ 4CR+ 7LR/nt+ 1NT+ 3DD+ 18LR/lc+ 1LC 
   Như vậy Các loài thực vật quý hiếm ở Pù Mát bao gồm  25 loài ở mức VU (Sẽ nguy cấp), 4 loài ở mức EN (Nguy cấp), 4 loài ở mức CR (Rất nguy cấp), 8 loài ở mức NT (Sắp bị đe doạ), 3 loài ở mức DD (Thiếu dẫn liệu), 19 loài ở mức LC (ít lo ngại) 
   Qua các dẫn liệu cho thấy, Pù Mát có đủ sự đa dạng, phong phú về giá trị nguồn gen thực vật của một VQG ở Việt Nam.
  - Các kiểu thảm thực vật của VQG Pù Mát:
 + Rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng, lá kim á ẩm nhiệt đới chiếm 29%.
 + Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới 46,5%
 + Kiểu phụ rừng lùn đỉnh núi 1,7%
 + Rừng phục hồi sau khai thác và sau nương rẫy 21%
 + Trảng cỏ cây bụi, cây gỗ rải rác 1,4%
 + Đất canh tác nông nghiệp và nương rẫy 0,4%
   2. Về động vật
   Kết quả khảo sát, điều tra đa dạng sinh học từ năm 1998 đến năm 2004 đã thống kê được thành phần các loài động vật có tại Vườn quốc gia Pù Mát như sau:
– Về thú: Có 132 loài, thuộc 11 bộ và 30 họ. Trong đó có 42 loài thú lớn, 39 loài dơi và 51 loài thú nhỏ. Theo danh lục IUCN (2007) tổng số có 93 loài. Công thức như sau:
 93 loài= 12VU+ 4EN+ 1CR+ 3LC+ 2NT+ 5LR/nt+ 61LR/lc + 5DD
   Như vậy Pù Mát bao gồm 12 loài Thú ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 4 loài ở mức EN (Nguy cấp), 1 loài ở mức CR(Rất nguy cấp), 7 loài ở mức NT (Sắp bị đe doạ),5 loài ở mức DD (Thiếu dẫn liệu), 64 loài ở mức LC (ít lo ngại)
   Tiêu biểu là các loài Voi, Hổ, Sao la, Vượn đen má trắng, Chà vá chân nâu, Khỉ đuôi lợn, Mang trường sơn, Chó sói lửa…
 42 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam (RBD 2007). Công thức như sau:
 42 loài = 18VU+ 17EN+ 3CR+ 2LR/nt+ 2DD
   Tức là, gồm 18 loài Thú ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 17 loài ở mức EN (Nguy cấp), 3 loài ở mức CR (Rất nguy cấp), 2 loài ở mức NT (Sắp bị đe doạ), 2 loài ở mức DD (Thiếu dẫn liệu)
   Về Chim: Có 361 loài thuộc 49 họ và 14 bộ bao gồm cả chim bản địa và chim di cư. Trong số này có 287 loài nằm trong danh lục IUCN (2007) . Công thức như sau:
 287 loài = 7NT+ 3VU+ 277LC
   Như vậy Pù Mát bao gồm 7 loài ở mức NT (sắp bị đe doạ), 3 loài ở mức VU (Sẽ nguy cấp), 277 loài ở mức LC (ít lo ngại).
15 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam (RBD 2007). Công thức như sau: 
15 loài= 8 VU +1EN+  2CR+ 1LR/nt + 3LR/cd
   Tức là, gồm 8 loài Chim ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 1 loài ở mức EN (Nguy cấp), 2 loài ở mức CR (Rất nguy cấp), 1 loài ở mức NT (Sắp bị đe doạ), 3 loài ở mức Cd (Phụ thuộc bảo tồn)
   Tiêu biểu có các loài Trĩ sao, Công, Gà lôi trắng, Gà tiền… Hai quần thể Trĩ sao và Hồng hoàng, Niệc cổ hung được xem có tầm quan trong cao mang tính quốc tế, và các quần thể của các loài khác như Diều cá bé cũng có thể có tầm quan trong bảo tồn quốc gia.
 – Về Lưỡng cư và bò sát: Tổng cộng có 86 loài. Cụ thể có: 33 loài Lưỡng cư và 53 loài Bò sát (trong đó có 16 loài Rùa, 12 loài Tắc kè, Kỳ đà,  25 loài rắn). 
   Trong đó: Lưỡng cư có 23 loài nằm trong danh lục IUCN 2007, với công thức như sau:
 23 Loài= 2NT+ 1DD+ 20LC. 
   Tức là: 2 loài ở mức NT (Sắp bị đe doạ), 1 loài ở mức DD (thiếu dẫn liệu), 20 loài ở mức LC (ít lo ngại)
 3 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam (RBD 2007), công thức: 
 3 loài=  2VU+ 1EN. 
 Tức là gồm 2 loài ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 1 loài ở mức EN (Nguy cấp)
   Bò sát có 17 loài nằm trong danh lục IUCN 2007 với công thức như sau:
 17 loài =  4VU + 9EN + 2CR + 2LR/nt
   Bao gồm: 4 loài ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 9 loài ở mức EN (Nguy cấp), 2 loài ở mức CR(Rất nguy cấp), 2 loài ở mức NT (Sắp bị đe doạ).
   20 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam (RBD 2007) với công thức như sau:
 20 loài = 7VU + 9EN + 4CR  
   Bao gồm:  7 loài ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 9 loài ở mức EN (Nguy cấp), 4 loài ở mức CR(Rất nguy cấp)
 Tiêu biểu có các loài như Rùa Ba vạch, Rùa Núi viền, Rùa hộp trán vàng, rắn lục xanh, Rắn hổ chúa…
 Về cá: Có 83 loài thuộc 56 chi, 19 họ.
 5 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam (RBD 2007) với công thức như sau:
 5 loài RBD= 4VU+ 1EN.
   Bao gồm: 4 loài ở mức VU ( Sẽ nguy cấp), 1 loài ở mức EN (Nguy cấp)
 Tiêu biểu có các loài: Cá chình, Cá lăng, Cá mát, cá lấu…
– Về Bướm: Tổng cộng có 459 loài bướm bao gồm: 365 loài bườm ngày, 94 loài bướm đêm (83 loài bướm sừng và 11 loài bướm Hoàng đế). Trong đó có 7 loài bướm ngày và 4 loài bướm đêm (bườm sừng) là những loài mới ở Việt Nam. Ngoài ra còn có 3 loài bướm ngày nằm trong sách đỏ Việt Nam (RBD 2007) được xếp hạng ở mức VU (Sẽ nguy cấp).
– Về kiến: Bước đầu đã xác định được 78 loài thuộc 40 chi, 9 phân họ Kiến có mặt tại VQG Pù Mát. Tuy nhiên, tên cụ thể của các loài kiến hiện đang chờ giám định.
– Về Côn trùng: Tổng cộng hiện đã xác định được 1084 loài thuộc 64 họ, của 7 bộ. Trong đó có 71 loài đặc hữu.
Như vậy, VQG Pù Mát có tổng số loài động vật quý hiếm nằm trong danh lục IUCN (2007) là 420  loài. Công thức tổng hợp như sau:
420 loài = 13EN+ 19VU+ 3CR+ 11NT+ 7LR/nt+ 300LC+ 61LR/lc+ 6DD.
88 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam (RBD 2007). Công thức tổng hợp như sau:
88 loài =  42VU +  29EN+  9CR+  3LR/nt+  3LR/cd+ 2DD
Yếu tố đặc hữu của khu hệ chim và thú ở VQG Pù Mát cũng cao, có tới 12 loài (cho Việt Nam và Lào) trong số đó có những loài đặc trưng như Chào vao, Voọc đen, Sao la, Mang lớn, Mang Trường sơn, Chà vá chân nâu, Vượn Má vàng, Thỏ vằn, Cầy vằn, Trĩ sao, Khướu mỏ dài.
Về lĩnh vực bảo tồn loài, Pù Mát chẳng những là một khu tầm cỡ quốc gia mà còn có giá trị cho cả Lào và Đông dương. Điều đặc biệt quan trọng là quần thể một số loài chim và thú thực sự có nguy cơ bị tiêu diệt ở Việt Nam và trên thế giới vẫn còn khả năng bảo tồn phát triển nếu VQG được quản lý và bảo vệ tốt đó là các loài Voi, Hổ, Sao La, Bò tót, Mang Trường Sơn, Thỏ vằn, Cầy Vằn, Gấu chó, Gấu ngựa, Trĩ sao.

III. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI

   1. Dân tộc
   Có 3 dân tộc chính trong 3 huyện thuộc khu vực VQG Pù Mát là Thai, Khơ Mú và Kinh. Ngoài ra còn có một số dân tộc khác như: Hơ Mông, Đan Lai, Poọng, Ơ Đu, Tày nhưng số lượng không lớn. Dân tộc Thái có dân số đông nhất (chiếm 66,89%) và ít nhất là dân tộc Ơ Đu (chiếm 0,6%).
   2. Dân số và lao động (đến tháng 4/2008)
   Tổng dân số 16 xã là 16.945 hộ với 93.235 nhân khẩu. Phần lớn dân cư phân bố trong 7 xã ở huyện Con Cuông (39.419 nhân khẩu, 7.167 hộ) và 5 xã thuộc huyện Anh Sơn (38.163 nhân khẩu, 6.938 hộ) còn lại thuộc 4 xã của huyện Tương Dương (15.753 nhân khẩu, 2.849 hộ), trung bình mỗi hộ gia đình có từ 3 – 6 người, tăng dân số là áp lực lớn đối với rừng. Dân số trong khu vực phân bố không đều giữa các xã, một số xã có dân số rất thấp như xã Tam Hợp huyện Tương Dương (7 người/km2), xã Châu Khê huyện Con Cuông (13 người/km2) có xã mật độ dân số cao như xã Đỉnh Sơn (495 người/km2), xã Cẩm Sơn (421 người/km2) thuộc huyện Anh Sơn.
   Do dân số không đều nên lực lượng lao đông phân bố cũng không đều và tập trung chủ yếu ở các xã vùng thấp của huyện Anh Sơn. Lực lượng lao động ở địa phương rất lớn, nhưng cơ cấu các ngành nghề trong khu vực lại rất đơn điệu. Phần lớn là các hoạt động sản xuất Lâm nghiệp, Nông nghiệp, Chăn nuôi gia súc, gia cầm, một số ít người làm trong các lĩnh vực khác như Y tế, Giáo dục, Dịch vụ. Việc dư thừa lao động, đời sống khó khăn khiến người dân đã vào VQG Pù Mát để khai thác lâm sản.
   Sản xuất Lâm nghiệp
   Các chương trình Lâm nghiệp được thực hiện như chương trình 327, 661. Hiện nay huyện Anh Sơn đã giao cho các hộ, các tập thể khoanh nuôi tu bổ, chăm sóc bảo vệ và trồng được 2.217ha rừng, huyện Tương Dương được 8.305ha, huyện Con Cuông được 30.280ha.
   Công tác trồng rừng cũng được chú trọng, cho đến thời điểm hiện nay. Diện tích rừng đã được trồng của huyện Anh Sơn là 2.853ha, Con Cuông là 3.350ha và Tương Dương là 206ha. Ngoài diện tích rừng trồng tập trung các huyện còn trồng được hàng triệu cây phân tán.
   Trong phạm vi VQG có 3 Lâm trường quốc doanh (Lâm trường Con Cuông, Lâm trường Anh Sơn và Lâm trường Tương Dương), hoạt động chủ yếu của các Lâm trường này là bảo vệ, tu bổ làm giàu rừng và khai thác.
   Bên cạnh các hoạt động truyền thống các Lâm trường trong khu vực còn là trung tâm dịch vụ về kỷ thuật, cây giống cho đồng bào địa phương.
   Các dự án phát triển kinh tế trong vùng
   Đối với xã vùng đệm thì chương trình lớn nhất về Lâm nghiệp (của Chính Phủ) là dự án 327, 661. Dự án 327 định canh định cư được thực hiện ở 3 bản đó là bản Cò Phạt, Khe Cồn, Bản Búng thuộc xã Môn Sơn.
Nhằm ổn định dân cư, quy hoạch nương rẫy, xoá bỏ cây thuốc phiện. Ngoài ra còn có các dự án khác nữa như: Dự án về giao khoán đất rừng, quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, giãn dân; dự án đầu nguồn sông Cả, sông Giăng do Chính phủ Thuỷ Điện tài trợ; dự án bảo vệ khai thác nguyên vật liệu giấy sợi; dự án trồng cây ăn quả như (cây cam, nhãn, vãi); dự án bảo vệ rừng đầu nguồn, hỗ trợ lương thực; dự án hỗ trợ vốn chăn nuôi, giống cây trồng (lúa, ngô…); dự án trồng cây công nghiệp (tiêu) của huyện Anh Sơn; dự án “LNXH và BTTN” tỉnh Nghệ An; dự án khả thi đầu tư xây dựng VQG Pù Mát.
   Các hoạt động ảnh hưởng đến VQG Pù Mát:
   Từ lâu đời cuộc sống đồng bào dân tộc ở đây chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Rừng là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu, cây thuốc…cho nhân dân trong vùng từ khi KBT được thành lập, các hoạt động phát rẫy không còn. Nhưng khai thác lâm sản, săn bắt thú rừng vẫn còn phổ biến, các hoạt động của người dân ảnh hưởng tới tài nguyên rừng và cảnh quan gồm:
– Phát rẫy làm nương gây cháy rừng.
– Khai thác gỗ, củi trái phép.
– Săn bắt cá bằng Mìn, Điên, chất độc trên sông suối phá huỷ môi trường, huỷ diệt hệ thống động vật thuỷ sinh.
– Chăn thả gia súc quá mức dưới tán rừng.
– Các hoạt động khai thác lâm sản khác như: Lấy Trầm hương, Măng, cây thuốc, Mật ong, lấy Nứa, cây cảnh…

IV. VĂN HÓA VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY

    1. Văn hoá truyền thống

   Đến đây quý khách sẽ được đón tiếp với những tình cảm chân thành của bà con và được thưởng thức những nét văn hoá dân tộc Thái qua điệu múa xoè, múa chăm và tiếng khèn cồng chiêng của họ và những thú vui uống rượu cần, múa lăm vông mang đậm dà bản sắc văn hoá dân tộc từ bao đời nay… Thưa quý khách, hiện nay chúng ta đang tiến về xã Lục Dạ, nơi có Bản Yên Thành với làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống, các cô gái Thái đã rất khéo léo dưới bàn tay của mình dệt nên những chiếc váy, khăn, túi xách … rất đẹp. Nếu còn thời gian khi quay trở ra mời quý khách ghé thăm và mua sản phẩm này về làm kỷ niệm cho chuyến đi của mình. Tiếp giáp với xã Lục Dạ quý khách sẽ đến với mảnh đất Môn Sơn nơi đây đã ghi nhiều di tích lịch sử Cách mạng cao trào Xô-Viết Nghệ -Tĩnh  1930-1931 và nơi đây chi bộ Đảng miền Tây đã ra đời .
   Văn hoá dân gian của các dân tộc ở Con Cuông là những di sản quý hoá, kết tinh qua bao đời, thể hiện sức sáng tạo của cha ông. Nó phản ảnh cuộc sống một cách chân thực trong sáng, tế nhị, văn hoá dân gian gồm 2 bộ phận cấu thành là: Văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, phản ánh một cách chân thực cuộc sống của người dân nơi đây. Cuộc sống đấu tranh xây dựng văn hoá vật chất văn hoá tinh thần của bà con trong quá trình phát triển. Mỗi một dân tộc đều có vốn văn hoá riêng biệt, mang màu sắc riêng, ở dân tộc Thái, có điệu khắp, điệu xên có thể nói vốn văn hoá dân gian rất phong phú và đa đạng, không kể các làn điệu dân ca. Còn có đủ các loại hình như: Tục ngữ, ca dao, truyện thơ…. Nền văn hoá đó phản ánh chân thực cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân cùng tư tưởng tình cảm tâm hồn của đồng bào miền núi, đặc biệt những cuộc vui khi uống rượu cần.
   Nét độc đáo của người Thái có những điệu khắp dành cho nam nữ thổ lộ tình cảm với nhau trong các ngày lễ hội.  
Hội xăng khan còn là ngày hội thi tài của nam nữ thanh niên, trong các ngày đó, các chàng trai, cô gái cùng các cụ già vui bên chum rượu cần, cùng uống rượu cần và nhảy múa, những điệu múa dân tộc rất đặc trưng. Bên cạnh đó múa xăng khan thường tổ chức 3 ngày 3 đêm vào cuối năm, cuộc vui trần gian do ông mo đứng ra tổ chức đóng các loại ma. Nhằm mục đích cầu cho mưa thuận, gió hoà dân làng làm ăn no đủ……

   2. TỔ CHỨC BỘ MÁY

  • Lãnh đạo: Giám đốc và 2 – 3 Phó Giám đốc.

Giám đốc là người đứng đầu Vườn Quốc gia Pù Mát; chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ các hoạt động của Vườn. Phó Giám đốc giúp Giám đốc chỉ đạo một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc và Phó Giám đốc thực hiện theo quy định của nhà nước.

  • Các phòng chuyên môn:

a) Phòng Kế hoạch – Tài chính.
b) Phòng Tổ chức – Hành chính.
c) Phòng Nghiên cứu Khoa học – Cứu hộ động vật hoang dã – Hợp tác quốc tế;

  • Các đơn vị trực thuộc:

a) Hạt Kiểm lâm Vườn bao gồm:
 + Văn phòng Hạt.
 + Đội Kiểm lâm cơ động;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Khe Thơi;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Tam Đình;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Khe Choăng;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Khe Bu;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Khe Kèm;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Cò Phạt;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Phà Lài;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Làng Yên;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Cao Vều;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Tam Hợp;
 + Trạm Quản lý bảo vệ rừng Lục Dạ;
b) Trung tâm Giáo dục môi trường – Du lịch sinh thái và dịch vụ;